Giảm đau sau mổ là gì? Các công bố khoa học về Giảm đau sau mổ
Giảm đau sau mổ là quá trình giảm đau và hỗ trợ bệnh nhân sau khi thực hiện một ca mổ. Thông thường, việc giảm đau sau mổ được thực hiện bằng cách sử dụng các l...
Giảm đau sau mổ là quá trình giảm đau và hỗ trợ bệnh nhân sau khi thực hiện một ca mổ. Thông thường, việc giảm đau sau mổ được thực hiện bằng cách sử dụng các loại thuốc giảm đau như thuốc giảm đau opioid, thuốc chống viêm non-steroid (NSAIDs), thuốc gây tê hoặc các phương pháp giảm đau khác như sử dụng máy TENS (Transcutaneous Electrical Nerve Stimulation) hay áp dụng nhiệt lên khu vực mổ.
Mục đích của giảm đau sau mổ là giảm cảm giác đau, giúp bệnh nhân thoải mái hơn, tăng khả năng hồi phục và giúp bệnh nhân có thể vận động và hô hấp tốt hơn. Chính vì vậy, việc giảm đau sau mổ rất quan trọng để tránh các biến chứng sau mổ và tăng cường quá trình phục hồi của bệnh nhân.
Cụ thể, quá trình giảm đau sau mổ có thể bao gồm các phương pháp sau:
1. Thuốc giảm đau opioid: Đây là loại thuốc được sử dụng phổ biến để giảm đau sau mổ. Các loại thuốc opiates như morfin, fentanyl hay oxycodone được sử dụng để giảm đau cấp tính. Tuy nhiên, sử dụng opioid cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ để tránh tác dụng phụ và việc lạm dụng.
2. Thuốc chống viêm non-steroid (NSAIDs): Loại thuốc này có tác dụng giảm đau và giảm viêm. Các NSAIDs thông thường bao gồm ibuprofen, naproxen và diclofenac.
3. Thuốc gây tê: Thuốc gây tê có thể được sử dụng để ngăn chặn hoặc kiểm soát những cảm giác đau sau mổ. Loại thuốc gây tê này thường được sử dụng trong các ca phẫu thuật lớn và thường được áp dụng trực tiếp vào khu vực mổ.
4. Máy TENS: Máy TENS (Transcutaneous Electrical Nerve Stimulation) được sử dụng để giảm đau bằng cách áp dụng các dòng điện nhỏ thông qua da. Các điện cực được đặt trên da xung quanh khu vực mổ và tạo ra các tín hiệu điện để gửi các tín hiệu không đau đến não.
5. Sử dụng nhiệt: Áp dụng nhiệt trên khu vực mổ có thể giúp giảm đau. Có thể sử dụng nhiệt độ ấm như bình nước nóng hoặc túi nhiệt lên khu vực vết mổ để làm giảm cảm giác đau.
Ngoài ra, các biện pháp khác như phục hồi dưỡng chất, vận động nhẹ nhàng và chất lỏng đầy đủ cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ quá trình giảm đau sau mổ. Tuy việc điều trị và lựa chọn phương pháp giảm đau sau mổ có thể khác nhau tùy thuộc vào từng bệnh nhân và loại phẫu thuật, nhưng mục đích chung là giảm đau, tăng sự thoải mái và tăng tốc quá trình phục hồi.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giảm đau sau mổ":
Ketorolac tromethamine là một loại thuốc giảm đau mới không gây nghiện tiêm được. Trong một nghiên cứu song song và mù đôi, hiệu quả giảm đau của các liều tiêm bắp đơn lẻ của ketorolac 10, 30 và 90 mg đã được so sánh với morphine sulfate 6 và 12 mg. Hai trăm bốn mươi một bệnh nhân được phân loại theo loại thủ thuật phẫu thuật và mức độ đau. Cường độ đau và mức độ giảm đau được đánh giá trong vòng 6 giờ bằng cách chấm điểm theo thang đo ngữ nghĩa và thang đo thị giác tương tự tiêu chuẩn. Những bệnh nhân nhận ketorolac 10, 30 hoặc 90 mg hoặc morphine (MS) 12 mg đều có mức độ giảm đau tốt hơn một cách có ý nghĩa thống kê trong hầu hết các phép đo được thực hiện so với những bệnh nhân nhận MS 6 mg (p < 0.05). Ketorolac 10 và 30 mg có hiệu quả tương đương với morphine 12 mg trong suốt thời gian quan sát 6 giờ, và ketorolac 90 mg hiệu quả hơn morphine 12 mg trong toàn bộ 6 giờ. Những bệnh nhân mengalami cơn đau liên quan đến phẫu thuật lớn (ví dụ: cắt bỏ túi mật và cắt tử cung vùng bụng) dễ phân biệt tác động giảm đau của morphine hơn những người tham gia các thủ tục ít chấn thương hơn (ví dụ: sửa chữa gân và dây chằng)
Nền tảng: Việc áp dụng đồng thời khối thần kinh ngực và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn (SPB) là một trong những chiến lược giảm đau đa phương pháp được mong muốn nhất, với việc thực hiện rộng rãi lộ trình phục hồi sớm sau phẫu thuật cho phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến (MRM). Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu hiện tại là điều tra hiệu quả và an toàn của khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I (PECS I) và SPB trong giảm đau sau phẫu thuật sau MRM. Thiết kế nghiên cứu: Một nghiên cứu ngẫu nhiên, tiềm năng. Địa điểm: Một trung tâm y tế học thuật. Phương pháp: Tổng cộng có 61 phụ nữ thực hiện MRM được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm chứng (nhóm C, n = 32) chỉ nhận gây mê toàn thân, trong khi nhóm điều trị PECS I + SPB (nhóm PS, n = 29) nhận được sự kết hợp của khối thần kinh ngực và SPB bên cạnh gây mê toàn thân. Kết quả: Điểm đau trên thang đo analog trực quan, mức tiêu thụ opioid, thời gian ở đơn vị chăm sóc hậu phẫu, và tỷ lệ sự kiện bất lợi thấp hơn ở nhóm PS so với nhóm C. Hơn nữa, PECS I kết hợp với SPB cải thiện chất lượng giấc ngủ và mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với việc giảm đau. Giới hạn: Nghiên cứu này bị giới hạn bởi kích thước mẫu. Kết luận: Những kết quả này cho thấy sự kết hợp của PECS I và SPB cung cấp sự giảm đau ngoại khoa ưu việt trong phẫu thuật ung thư vú.
Kết hợp các thuốc giảm đau có cơ chế tác động khác nhau có thể tăng cường hiệu quả giảm đau. Các hồ sơ dược động học đa chiều của ibuprofen 400 mg/paracetamol 1000 mg, ibuprofen 400 mg/paracetamol 1000 mg/codeine 60 mg, và paracetamol 1000 mg/codeine 60 mg cùng với giả dược đã được so sánh.
Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược, nhóm song song, trung tâm đơn, ngoại trú và liều đơn đã được thực hiện với 200 bệnh nhân ở cả hai giới và có nguồn gốc dân tộc đồng nhất sau phẫu thuật răng khôn (tuổi trung bình 24 năm, trong khoảng 19–30 năm). Kết quả chính là tổng cường độ đau trong vòng 6 giờ (SPI). Các kết quả thứ cấp bao gồm thời gian bắt đầu giảm đau, thời gian giảm đau, thời gian sử dụng thuốc cứu trợ, số lượng bệnh nhân dùng thuốc cứu trợ, tổng khác biệt cường độ đau (SPID), khác biệt cường độ đau tối đa, thời gian đến khác biệt cường độ đau tối đa, số bệnh nhân cần điều trị, giá trị ngăn ngừa tái điều trị và tác hại, tác dụng phụ và các chỉ số báo cáo của bệnh nhân (PROM).
Hiệu quả giảm đau khi kết hợp ibuprofen và paracetamol có hay không có codeine là tương đương nhau. Cả hai kết quả đều tốt hơn so với paracetamol kết hợp với codeine. Các biến thứ cấp đã hỗ trợ phát hiện này. Phân tích sau nghiệm SPI và SPID đã phát hiện xu hướng tương tác giới tính/thuốc trong các nhóm có chứa codeine, trong đó nữ giới cảm nhận ít hiệu quả giảm đau hơn. PROM cho thấy một tương tác giới tính/thuốc đáng kể trong nhóm paracetamol và codeine, nhưng không ở các nhóm khác có chứa codeine. Đặc biệt, các nữ giới đã báo cáo các tác dụng phụ đã biết và nhẹ trong các nhóm có chứa codeine.
Codeine thêm vào ibuprofen/paracetamol dường như không làm tăng hiệu quả giảm đau trong một quần thể nghiên cứu có giới tính hỗn hợp. Giới tính có thể là một yếu tố gây nhầm lẫn khi thử nghiệm các thuốc giảm đau opioid yếu như codeine. PROM dường như nhạy hơn so với các chỉ số kết quả truyền thống.
ClinicalTrials.gov tháng 6 năm 2009 NCT00921700.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7