Giảm đau sau mổ là gì? Các công bố khoa học về Giảm đau sau mổ

Giảm đau sau mổ là quá trình giảm đau và hỗ trợ bệnh nhân sau khi thực hiện một ca mổ. Thông thường, việc giảm đau sau mổ được thực hiện bằng cách sử dụng các l...

Giảm đau sau mổ là quá trình giảm đau và hỗ trợ bệnh nhân sau khi thực hiện một ca mổ. Thông thường, việc giảm đau sau mổ được thực hiện bằng cách sử dụng các loại thuốc giảm đau như thuốc giảm đau opioid, thuốc chống viêm non-steroid (NSAIDs), thuốc gây tê hoặc các phương pháp giảm đau khác như sử dụng máy TENS (Transcutaneous Electrical Nerve Stimulation) hay áp dụng nhiệt lên khu vực mổ.

Mục đích của giảm đau sau mổ là giảm cảm giác đau, giúp bệnh nhân thoải mái hơn, tăng khả năng hồi phục và giúp bệnh nhân có thể vận động và hô hấp tốt hơn. Chính vì vậy, việc giảm đau sau mổ rất quan trọng để tránh các biến chứng sau mổ và tăng cường quá trình phục hồi của bệnh nhân.
Cụ thể, quá trình giảm đau sau mổ có thể bao gồm các phương pháp sau:

1. Thuốc giảm đau opioid: Đây là loại thuốc được sử dụng phổ biến để giảm đau sau mổ. Các loại thuốc opiates như morfin, fentanyl hay oxycodone được sử dụng để giảm đau cấp tính. Tuy nhiên, sử dụng opioid cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ để tránh tác dụng phụ và việc lạm dụng.

2. Thuốc chống viêm non-steroid (NSAIDs): Loại thuốc này có tác dụng giảm đau và giảm viêm. Các NSAIDs thông thường bao gồm ibuprofen, naproxen và diclofenac.

3. Thuốc gây tê: Thuốc gây tê có thể được sử dụng để ngăn chặn hoặc kiểm soát những cảm giác đau sau mổ. Loại thuốc gây tê này thường được sử dụng trong các ca phẫu thuật lớn và thường được áp dụng trực tiếp vào khu vực mổ.

4. Máy TENS: Máy TENS (Transcutaneous Electrical Nerve Stimulation) được sử dụng để giảm đau bằng cách áp dụng các dòng điện nhỏ thông qua da. Các điện cực được đặt trên da xung quanh khu vực mổ và tạo ra các tín hiệu điện để gửi các tín hiệu không đau đến não.

5. Sử dụng nhiệt: Áp dụng nhiệt trên khu vực mổ có thể giúp giảm đau. Có thể sử dụng nhiệt độ ấm như bình nước nóng hoặc túi nhiệt lên khu vực vết mổ để làm giảm cảm giác đau.

Ngoài ra, các biện pháp khác như phục hồi dưỡng chất, vận động nhẹ nhàng và chất lỏng đầy đủ cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ quá trình giảm đau sau mổ. Tuy việc điều trị và lựa chọn phương pháp giảm đau sau mổ có thể khác nhau tùy thuộc vào từng bệnh nhân và loại phẫu thuật, nhưng mục đích chung là giảm đau, tăng sự thoải mái và tăng tốc quá trình phục hồi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giảm đau sau mổ":

Đánh giá độ dung nạp và hiệu quả giảm đau của dung dịch paracetamol tiêm tĩnh mạch mới ở trẻ em sau phẫu thuật thoát vị bẹn Dịch bởi AI
Paediatric Anaesthesia - Tập 15 Số 8 - Trang 663-670 - 2005
Tóm tắt

Đề cương: Một công thức tiêm tĩnh mạch (i.v.) mới của paracetamol và propacetamol (tiền dược của paracetamol) đã được so sánh để xác định độ dung nạp và hiệu quả giảm đau tương đối trong 6 giờ đầu tiên sau khi phẫu thuật sửa thoát vị bẹn được thực hiện dưới gây mê toàn thân kết hợp với chẹn ilioinguinal ở trẻ em.

Phương pháp: Một tổng số 183 bệnh nhân ASA I hoặc II, độ tuổi 1–12 tuổi, nhập viện để phẫu thuật sửa thoát vị bẹn đơn bên đã được ngẫu nhiên phân ra nhận liệu pháp paracetamol tiêm tĩnh mạch 15 mg·kg−1 (n = 95) hoặc propacetamol 30 mg·kg−1 (n = 88) nhằm giảm đau sau phẫu thuật ngay khi cường độ đau cao hơn 30 trên thang điểm analog thị giác 100 mm. Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá về hiệu quả và độ dung nạp. Hiệu quả được đánh giá giữa 15 phút và 6 giờ sau khi bắt đầu truyền trong 15 phút.

#paracetamol #propacetamol #điều trị giảm đau #thoát vị bẹn #trẻ em
Khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn giúp giảm đau sau phẫu thuật cho bệnh nhân thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến Dịch bởi AI
Pain Physician - Tập 4 Số 22;4 - Trang E315-E323 - 2019

Nền tảng: Việc áp dụng đồng thời khối thần kinh ngực và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn (SPB) là một trong những chiến lược giảm đau đa phương pháp được mong muốn nhất, với việc thực hiện rộng rãi lộ trình phục hồi sớm sau phẫu thuật cho phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến (MRM). Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu hiện tại là điều tra hiệu quả và an toàn của khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I (PECS I) và SPB trong giảm đau sau phẫu thuật sau MRM. Thiết kế nghiên cứu: Một nghiên cứu ngẫu nhiên, tiềm năng. Địa điểm: Một trung tâm y tế học thuật. Phương pháp: Tổng cộng có 61 phụ nữ thực hiện MRM được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm chứng (nhóm C, n = 32) chỉ nhận gây mê toàn thân, trong khi nhóm điều trị PECS I + SPB (nhóm PS, n = 29) nhận được sự kết hợp của khối thần kinh ngực và SPB bên cạnh gây mê toàn thân. Kết quả: Điểm đau trên thang đo analog trực quan, mức tiêu thụ opioid, thời gian ở đơn vị chăm sóc hậu phẫu, và tỷ lệ sự kiện bất lợi thấp hơn ở nhóm PS so với nhóm C. Hơn nữa, PECS I kết hợp với SPB cải thiện chất lượng giấc ngủ và mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với việc giảm đau. Giới hạn: Nghiên cứu này bị giới hạn bởi kích thước mẫu. Kết luận: Những kết quả này cho thấy sự kết hợp của PECS I và SPB cung cấp sự giảm đau ngoại khoa ưu việt trong phẫu thuật ung thư vú.

#Khối thần kinh ngực #khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn #giảm đau sau phẫu thuật #phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn siêu âm
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê liên tục cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật thay khớp háng. 30 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng theo chương trình được được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại Trung tâm Gây mê và Hồi sức ngooại khoa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2019. Thời gian thực hiện kĩ thuật, vùng phong bế cảm giác, điểm đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ và một số tác dụng không mong muốn được ghi lại trong 48 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 16,03 ± 2,80 (phút). 100% người bệnh phong bế được thần kinh chậu bẹn chậu hạ vị; 96,7% phong bế được thần kinh đùi và thần kinh bì đùi ngoài; 70% phong bế được thần kinh sinh dục đùi và 50% phong bế được thần kinh bịt. Điểm VAS trung bình khi nghỉ đều < 3 và khi vận động đều xấp xỉ 4 ở tất cả các thời điểm. Có 1 bệnh nhân phải giải cứu bằng morphin với tổng liều 36 mg và 96,7% bệnh nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy gây tê cơ vuông thắt liên tục dưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ cho các phẫu thuật thay khớp háng.
#gây tê cơ vuông thắt lưng #thay khớp háng #hướng dẫn của siêu âm #giảm đau sau mổ
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG PHẪU THUẬT LẤY THAI TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 8 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê NMCvới giảm đau đường toàn thân trong phẫu thuật mổ lấy thai tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An.Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu mô tả lâm sàng có đối chứng với 120 bệnh nhân đượcphẫu thuật lấy thai có ASA I và II, độ tuổi từ 18 đến 42 tuổi, được phân thành hai nhóm: nhóm A(n=60) giảm đau sau mổ bằng anaropin kết hợp fentanyl qua đường gây tê NMC và nhóm B(n=60) giảm đau sau mổ bằng paracetamol qua đường tĩnh mạch và morphin tiêm bắp. Đánh giákết quả qua theo dõi thang điểm đau VAS, tác dụng không mong muốn và tai biến trong 24 giờ sauphẫu thuật.Kết quả: Kết quả không có sự khác biệt giữa hai nhóm về độ tuổi, cân nặng, ASA, thời gianphẫu thuật. Điểm đau VAS trung bình ở nhóm A thấp hơn nhóm B ở mọi thời điểm theo dõi(p<0.05) đối với cả 2 đường mổ[6],[7]. Trong 24 giờ đầu sau mổ, nhóm A tỷ lệ bệnh nhân hài lònglà 100% trong đó có 73.33% là rất hài lòng; nhóm B tỷ lệ bệnh nhân hài lòng là 95% trong đó có45% rất hài lòng. Nhóm A có 2 bệnh nhân (3,33%) và nhóm B có 12 bệnh nhân (20%) buồn nônvà nôn (p < 0,05).Kết luận: Gây tê NMC bằng anaropin 0,1% phối hợp fentanyl 1mcg/ml có chất lượng giảm đauvà sự hài lòng của sản phụ (100% sản phụ hài lòng trong đó có 73.33% rất hài lòng) tốt hơn giảmđau bằng paracetamol tĩnh mạch phối hợp morphin tiêm bắp (95% sản phụ hài lòng trong đó 45%sản phụ rất hài lòng) trong phẫu thuật lấy thai. Gây tê NMC bằng anaropin 0,1% phối hợp fentanyl1 mcg/ml là kỹ thuật an toàn, ít tác dụng phụ và tác dụng không mong muốn (1,67% sản phụ cóngứa và 3.33% nôn buồn nôn) hơn dùng paracetamol tĩnh mạch phối hợp morphin tiêm bắp (20%sản phụ có nôn, buồn nôn).
#Giảm đau #gây tê ngoài màng cứng #giảm đau sau mổ.
Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (erector spinae plane block) cho phẫu thuật tim hở
Áp dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống giúp giảm đau và không cần sử dụng opioid sau phẫu thuật tim hở. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật tim hở. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng được thực hiện từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 54 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 80, có chỉ định mổ tim hở theo kế hoạch, được đặt catheter ESPB hai bên ngay trước khi khởi mê, liều ropivacain tính theo cân nặng bệnh nhân, phối hợp thêm paracetamol truyền tĩnh mạch sau mổ. Điểm visual analogue scale, huyết áp trung bình khi nghỉ và khi vận động được đánh giá tại các thời điểm ngay sau rút nội khí quản và sau rút là 6, 12, 18, 24, 36, 48 giờ; đánh giá khí máu động mạch mỗi 24 và 48 giờ. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi nghỉ < 3 và khi vận động ≤ 4. Có 7,4% bệnh nhân phải chuẩn độ morphin; 3,7% bệnh nhân phải phối hợp PCA morphin. ESPB (Erector spinae plane block) không làm tụt huyết áp và các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường ở các thời điểm nghiên cứu; không có biến chứng sau phẫu thuật. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật tim hở.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #mổ tim hở #giảm đau.
10. hiệu quả giảm đau điện châm nhóm huyệt thượng liêu, thứ liêu, trung liêu trên bệnh nhân sau mổ trĩ theo phương pháp milligan morgan từ ngày thứ 2
Đau sau mổ cắt trĩ là một vấn đề phổ biến, do đó việc tìm các giải pháp giảm đau sau mổ cắt trĩ an toàn, ít tác dụng phụ luôn là một vấn đề cần được nghiên cứu. Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ trĩ của điện châm nhóm huyệt Thượng liêu -Thứ liêu -Trung liêu. 60 bệnh nhân sau mổ trĩ bằng phương pháp Milligan Morgan chia 2 nhóm: điện châm và dùng thuốc Efferalgan Codein. Kết quả cho thấy điểm VAS (Visual Analogue Scale) giảm trung bình ở nhóm nghiên cứu và nhóm chứng là 2,97 ± 0,77 và 2,5 ± 1,04 so với trước điều trị (p < 0,05). Chưa thấy tác dụng không mong muốn của nhóm sử dụng điện châm trên lâm sàng.
#Điện châm #giảm đau sau mổ trĩ #Thượng liêu - Thứ liêu - Trung liêu
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KÉO DÀI GIẢM ĐAU SAU MỔ LẤY THAI BẰNG GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ NGANG BỤNG BẰNG HỖN HỢP THUỐC ROPIVACAIN PHỐI HỢP VỚI DEXAMETHASON
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả kéo dài giảm đau sau mổ lấy thai bằng gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng bằng hỗn hợp thuốc ropivacain phối hợp với dexamethason. Nghiên cứu được thực hiện trên 100 bệnh nhân tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian giải cứu cơn đau đầu tiên ngắn hơn đáng kể ở nhóm 1 (11,01 ± 3,62giờ) so với nhóm 2 (18,54 ± 4,15giờ) (p<0,05). Tổng nhu cầu morphin trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật cao hơn đáng kể ở nhóm 1 (5,62± 2,1 mg) so với nhóm 2 (4,07± 1,9mg) (p <0,05). Điểm số VAS- S và VAS- V của cả hai nhóm khác nhau không đáng kể tại các thời điểm 1 giờ, 2 giờ và 4 giờ sau phẫu thuật, tuy nhiên ở nhóm 1 cao hơn đáng kể so với nhóm 2 tại các thời điểm 8 giờ, 12 giờ, 16 giờ và 24 giờ sau phẫu thuật.Tỷ lệ nôn ở nhóm 1 chiếm 20% cao hơn nhiều so với nhóm 2 chỉ chiếm 4%, p < 0,05. Các chỉ số lâm sàng liên quan đến tuần hoàn trong giới hạn bình thường và tương đương nhau giữa hai nhóm ở các thời điểm 1 giờ, 2 giờ ,4 giờ nghiên cứu. Nhịp tim, huyết áp trung bình lúc 8 giờ, 12 giờ, 16 giờ và 24 giờ sau phẫu thuật ở nhóm 1 cao hơn đáng kể so với bệnh nhân nhóm 2 (p <0,05). Các chỉ số lâm sàng liên quan đến hô hấp trong giới hạn bình thường và tương đương nhau giữa hai nhóm ở tất cả các thời điểm nghiên cứu. Trong nghiên cứu của chúng tôi không gặp bất kỳ tai biến nào liên quan đến gây tê TAP block.
#giảm đau #mổ lấy thai #ropivacain #dexamethason
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU, SƯNG, KHÍT HÀM CỦA LASER DIODE CÔNG SUẤT THẤP SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI MỌC LỆCH NGẦM TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT NAM CU BA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 534 Số 1B - 2024
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, sưng, khít hàm sử dụng laser diode công suất thấp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm tại bệnh viện Việt Nam Cu Ba. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng trong nghiên cứu gồm 100 bệnh nhân có nhu cầu và chỉ định nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm đến khám và điều trị tại khoa Răng miệng, Bệnh viện Việt Nam Cu Ba từ tháng 09/2022 đến tháng 06/2023. Bệnh nhân nghiên cứu được chia thành 2 nhóm có chiếu laser và không chiếu laser sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm. Đánh giá mức độ sưng, đau, khít hàm giữa 2 nhóm. Kết quả: Điểm đau trung bình theo VAS cao nhất được ghi nhận sau phẫu thuật 4 giờ, ở nhóm có chiếu và không chiếu laser là 2,44 ± 1,41 và 5,62 ± 1,67. Điểm đau trung bình giữa nhóm có chiếu laser thấp hơn so với nhóm không chiếu laser các thời điểm sau phẫu thuật, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ở ngày thứ 7, nhóm không chiếu laser vẫn còn đau trong khi nhóm có chiếu laser đã hết đau. Số viên thuốc giảm đau trung bình phải sử dụng ở nhóm bệnh nhân không chiếu laser (3,12 ± 1,58 viên) cao hơn so với nhóm bệnh nhân chiếu laser (0,59 ± 1,85 viên). Mức độ sưng theo chiều dọc và chiều ngang ở nhóm bệnh nhân phẫu thuật có chiếu laser thấp hơn so với nhóm không sử dụng ở ngày thứ 1 và thứ 2 sau phẫu thuật (p<0,05). Mức độ há miệng ở nhóm bệnh nhân phẫu thuật có chiếu laser tốt hơn ở nhóm không chiếu laser ở ngày thứ và thứ 2 sau phẫu thuật. Kết luận: Việc sử dụng laser diode có tác dụng làm giảm đau, giảm sưng nề, giảm mức độ khít hàm sau mổ ở những bệnh nhân răng khôn hàm dưới mọc lệch.
GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ SỎI ĐƯỜNG MẬT CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ sỏi đường mật và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I giảm đau bằng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) một liều duy nhất mức T7 hai bên trước mổ mỗi bên bằng 20mL Ropivacain 0,25% phối hợp Dexamethasone 0,04%, nhóm II không được gây tê. Cả hai nhóm đều được gây mê nội khí quản và sau mổ sử dụng giảm đau PCA morphin. Kết quả: Nhóm gây tê ESP có thời gian yêu cầu thuốc giảm đau đầu tiên kéo dài hơn so với nhóm không được gây tê (3,60±2,45 giờ so với 0,66±0,31 giờ), ESP giúp giảm lượng morphin tiêu thụ 12h và 24h đầu sau mổ; giảm ý nghĩa điểm VAS lúc nghỉ và vận động trong 18h đầu sau mổ. Tỉ lệ nôn, buồn nôn, ngứa của 2 nhóm là tương đương, không gặp biến chứng nào của ESPB. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật sỏi đường mật
#gây mê mặt phẳng cơ dựng sống #phẫu thuật đường mật #giảm đau cho phẫu thuật sỏi mật
SO SÁNH TÁC DỤNG GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT VÙNG DƯỚI RỐN Ở BỆNH NHÂN NHI GIỮA TIÊM MORPHIN 3MCG/KG TUỶ SỐNG VỚI TIÊM MORPHIN 30MCG/KG KHOANG CÙNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Giảm đau sau phẫu thuật nhi là rất cần thiết, tiêm morphin khoang cùng được áp dụng từ lâu nhưng tiềm ẩn tác dụng phụ cũng như khó khăn về kỹ thuật. Tiêm morphin tuỷ sống mới được áp dụng gần đây. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả giảm đau và tác dụng không mong muốn của 2 phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 75 bệnh nhân nhi, chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 tiêm morphin 3mcg/kg tuỷ sống, Nhóm 2 tiêm morphin 30 mcg/kg khoang cùng. Kết quả: chỉ số nhân trắc, loại phẫu thuật không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Nhóm 1 có thời gian giảm đau là 32,1 ± 12,7 (giờ) dài hơn nhóm 2 là 28,9 ± 10,7 (giờ), khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Điểm FLACC của hai nhóm đều thấp dưới 3 tại các thời điểm nghiên cứu, nhu cầu thuốc giảm đau bổ sung tương đương ở hai nhóm. Không có bệnh nhân nào suy hô hấp trong 48h sau mổ, nhóm 1 có tỷ lệ nôn, buồn nôn và ngứa nhiều hơn nhóm 2, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, mức độ các triệu chứng nhẹ. Kết luận: nhóm tiêm morphin tuỷ sống có hiệu quả giảm đau tương tự nhóm tiêm morphin khoang cùng, không có bệnh nhân nào suy hô hấp, tác dụng phụ của nhóm tiêm tuỷ sống nhiều hơn nhưng không cần điều trị
#tê tuỷ sống #tê khoang cùng #gây mê hồi sức nhi
Tổng số: 50   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5